Trong cuộc đời mỗi con người chúng ta, có mấy ai chịu ngồi lại để giải quyết câu hỏi: Sống để làm gì? Người ta luôn tránh xa câu hỏi này như một căn bệnh dịch, thế nhưng căn bệnh này không buông tha cho bất kì ai, và cái gì đến cũng sẽ đến…
Tất cả chúng ta luôn chạy theo những ảo ảnh để rồi kết thúc cuộc đời mình trong một sự rỗng tuếch và vô vị. Cho nên ngay tại ngày hôm nay ta muốn chấm dứt ra khỏi từ điển của mình một quan niệm: Đời là bể khổ.
Nietzsche-một trong những người sáng lập ra triết học hiện sinh đã thốt lên: “Đối với các nhà tư tưởng của chúng ta, điều kì lạ là vấn đề thúc bách nhất không ai chịu giải quyết: công việc của họ có ích lợi gì… và cho mục đích gì?”
Tất cả mọi chúng ta đang bị lạc lõng trong một thế giới đầy rẫy những tiếng ồn. Tivi, radio, báo chí, internet… tất cả mọi phương tiện thông tin đại chúng đang nhồi nhét vào não chúng ta biết bao nhiêu loại thông tin. Từ vụ đánh bom trong một thành phố nào đó làm hàng trăm người thiệt mạng, cho tới những quảng cáo đầy trơ trẽn về những món hàng nào đó…
Cùng một phát thanh viên cũng với giọng nói đầy truyền cảm, luôn thu hút và hấp dẫn người nghe vốn thường gây cho bạn một ấn tượng nghiêm trang về tình hình chính trị nào đó, thì giờ đây đang truyền tải cho khán giả về cái giá của một lọ nước mắm là bao nhiêu. Báo chí kể cho ta nghe về những tư tưởng cũ mèm hay các thói quen ăn sáng của những cô đào mới nổi danh nào đó, kèm theo là các vụ tai tiếng của những ngôi sao…
Tất cả những điều này cứ được lặp đi lặp lại đến nỗi người ta đã không còn biết đến tính chính xác của những gì được nghe thấy. Ta không còn bị kích thích, say mê…cảm xúc và sự phán xét của ta luôn bị ngăn trở và cuối cùng là thái độ hời hợt và lãnh đạm với tất cả mọi việc trên đời.
Nhưng thi thoảng ta nên tự hỏi: “TA ĐANG THEO ĐUỔI CÁI GÌ? TA SỐNG VÌ CÁI GÌ?”
Thế vấn đề ở đây là gì?
Tất cả mọi sức lực của chúng ta đều dành cho một mục đích nào đó, và người ta không bao giờ nghi ngờ về tiên đề này: họ biết được họ muốn cái gì. Thế nhưng không một ai chịu dừng lại để đặt ra câu hỏi: liệu những mục đích mà họ đang theo đuổi có thực sự là thứ mà bản thân họ mong muốn hay không?
Chúng ta thấy con người đang được đào tạo theo phương pháp lĩnh hội những cảm xúc vốn dĩ không phải là của mình, ta học cách “hoà đồng với mọi người”, “giống như người khác”, “thân thiện”… Nếu anh không mỉm cười thì anh sẽ bị đánh giá là kẻ thiếu tính cởi mở, mất lịch sự, do đó anh phải học cách lịch sự nếu như anh muốn bán được những dịch vụ của mình, dù cho anh có là bồi bàn, người bán hàng hay y bác sĩ…
Chỉ có những người nằm dưới cùng bậc thang của xã hội, những người không còn gì để bán, và những người ở tận trên cùng bậc thang của xã hội mới không cần phải tỏ ra đặc biệt “cởi mở”. Sự thân thiện, vui vẻ và mọi thứ mà người ta cho là có thể bày tỏ bởi một nụ cười, giờ đây nó đã trở thành một việc đầy máy móc đến nỗi người ta có thể bậc tắt nó một cách thật dễ dàng giống như bậc tắt công tắc điện.
Ban đầu thì nhiều cá nhân cũng nhận thấy hành động này là làm bộ, nhưng lâu dần theo thời gian thì người ta đã mất luôn ý thức về nó, lúc này họ đã không còn khả năng để phân biệt được đâu là cảm xúc giả tạo và đâu là sự thân thiện tự nhiên. Tình trạng méo mó và giả tạo này cũng diễn ra đối với tư tưởng sáng tạo của con người, ngay từ quá trình giáo dục đầu tiên thì những tư tưởng sáng tạo luôn bị ngăn cản bởi sự nhồi nhét đủ mọi thứ vào trong đầu óc con người, hàng trăm sự kiện vụn vặt vốn chẳng ăn nhập gì với nhau cứ bị nhồi bừa vào đầu của chúng ta theo quan điểm nó ra sao thì ra.
Trên thực tế việc tiếp thu một sự kiện nào đó mà không biết được ý nghĩa của nó là điều hoàn toàn vô nghĩa, nó có tác dụng như khi người ta muốn tìm hiểu về cách chuẩn bị làm một cuộc hành trình qua sa mạc Sahara, nhưng lại được chỉ dẫn về đời sống ở Bắc Cực.
Theo dòng chảy của lịch sử, uy quyền của Giáo Hội được thay thế bởi uy quyền của Nhà Nước, rồi thay cho Nhà Nước là uy quyền của Lương Tri, và trong thời đại của chúng ta cái uy quyền ẩn danh này thường nấp dưới tên gọi “Ý thức cộng đồng” hay “Ý kiến dư luận”. Con người đã sống trọn cuộc đời mình nhưng chưa bao giờ biết được hương vị thực sự của cuộc sống, nhất cử nhất động của chúng ta không xuất phát từ nhu cầu của bản thân, mà tất cả mọi hành động đều là do sự điều khiển của dư luận-con người đã bị biến thành con trâu và được “ý kiến dư luận” xỏ mũi dẫn đi.
Vì đã thoát khỏi những hình thái đe doạ trực tiếp và bên ngoài như trước kia, cho nên con người thường không nhận thấy rằng mình đã trở thành nạn nhân của một loại uy quyền mới. Chúng ta đã bị biến thành cái máy sống trong ảo tưởng của cái được gọi là “tự do”, tất cả mọi người đều sống trong một thế giới mà ở đó không thể nào cảm nhận được những mối liên hệ đích thực-mối liên hệ giữa con người với con người. Mọi người và mọi công việc cho dù đó có là anh bán báo, chị viên chức, người học sinh… thì vào bất kể giờ phút nào họ cũng phải đóng một vở kịch, nhất cử nhất động đều chỉ để diễn cho người khác xem.
Lúc này cái gọi là ý thức về “trách nhiệm” như ta đã thấy đang tràn ngập trong đời sống của con người hiện đại, thật ra nó bị méo mó một cách khủng khiếp bởi sự dồn nén của xã hội, “lương tâm” là một người chủ ác nghiệt do chính con người tự quàng vào bản thân mình, nó thúc đẩy con người hành động theo những ý muốn và mục tiêu mà họ tưởng là của chính mình, trong khi thực tế thì nó là sự tiếp thu từ những đòi hỏi của xã hội bên ngoài.
“Trách nhiệm” – nó săn đuổi chúng ta gay gắt và ác liệt, nó ngăn cản chúng ta mơ mộng và hạnh phúc, nó biến cả cuộc đời của chúng ta thành những chuỗi ngày đền tội cho những thứ tội lỗi kì cục nào đó mà người khác đã gán cho.
Khi còn đi học chúng ta được giáo dục rằng phải có điểm tốt, khi trưởng thành thì muốn thành đạt hơn trong cuộc sống, kiếm được nhiều tiền hơn, có được nhiều quyền lực hơn, mua được chiếc xe tốt hơn… Song không một ai chịu dừng lại để suy ngẫm giữa một chuỗi hành động cuồng điên đó, thì vấn đề đằng sau có thể làm cho họ tỉnh ngộ:
“Nếu tôi có được công việc mới này, nếu tôi có được cái xe hơi mới này, nếu tôi có được căn nhà mới này… rồi thì sao? Đâu là mục đích cuối cùng của tất cả những cái đó? Có thật là bản thân tôi muốn chúng hay không? Phải chăng tôi đang chạy theo những mục tiêu được cho là sẽ khiến tôi hạnh phúc, thứ hạnh phúc đó có tồn tại sau khi tôi đạt được chúng hay không?”
Thế nhưng khi những câu hỏi này được đặt ra thì nó thật khủng khiếp, bởi vì nó đã phủ nhận toàn bộ mọi hoạt động sống của con người. Thế nên những con người bình thường có xu hướng rủ bỏ càng sớm càng tốt những suy nghĩ phiền hà này, họ thấy mình bị làm phiền bởi những câu hỏi đó, họ cảm thấy mệt mỏi hay chán chường vì nó quá khủng khiếp đối với họ, họ tìm cách che đậy những suy nghĩ về vấn đề ý nghĩa của hành động bởi những thói quen trong hoạt động hàng ngày, bởi niềm vui mà còn người tìm thấy trong các mối quan hệ riêng tư hay quan hệ xã hội, bởi thành công trong công việc, bởi bất kì những trò tiêu khiến nào, bởi việc “tận hưởng niềm vui”, “tạo ra các mối quan hệ”, “đi đây đi đó”…
Thế nhưng một ngôi sao không thể làm sáng lên cả bầu trời, nỗi cô đơn sợ hãi khi bị bỏ lại trong sự tối tăm của cuộc đời dù sớm hay muộn thì người ta cũng nhận ra, nó khiến cho người ta không thể nào chịu đựng thêm được nữa, nhưng làm người bình thường thì cũng có cái hay của nó: họ lại ráng chịu đựng và tiếp tục theo đuổi những mục tiêu mà họ cho là của mình. Song tất cả những điều trên chỉ chứng tỏ một sự lạc lối của con người: họ cho rằng mình muốn cái gì và mình sống vì cái gì nhưng thật ra họ chẳng biết được mình muốn cái gì và mình sống vì cái gì.
Để nhận thức được vấn đề này thì người ta cần phải nhận thấy rằng: biết được mình thực sự muốn gì là việc làm không hề dễ dàng như người ta thường nghĩ, đây là một trong những vấn đề khó khăn nhất mà bất kì ai cũng phải đối mặt: Tôi muốn gì? Đây là một câu hỏi mà người ta thường hay né tránh bằng cách chấp nhận những mục đích, sở thích của người khác hay một nhóm người nào đó và cho đó là của mình, việc này tương tự như câu nói: Anh thích gì? Tôi thích những thứ mà người ta bắt tôi phải thích.
Khi cốt truyện chung của một vở kịch được dàn dựng lên, thì mỗi một người được phân công để đóng một vai diễn đầy sinh động trong đó, họ có thể diễn nó một cách thật xuất sắc, nhưng cuối cùng họ không hề băn khoăn về vai diễn của mình có ý nghĩa như thế nào đối với vở kịch, và do đó kết thúc của vở kịch này là một hành động đầy nhạt nhẽo, vô vị: người diễn xong bước xuống dưới để nhường chỗ cho người chưa diễn bước lên.
Tôi là ai?
Câu hỏi này nghe có vẻ là điên rồ, thế nhưng đằng sau nó là cả một sự cay đắng và bi phẫn. Con người ta đã bị đánh mất đi cái tôi của mình, điều này có nghĩa là con người chỉ có thể đảm bảo cho sự tồn tại của bản thân bằng cách sống theo sự mong đợi của người khác, nếu ta không sống theo sự chỉ dẫn đó thì ta không chỉ bị chống đối mà ngày càng bị xa cách và cuối cùng là ta bị tiêu diệt.
Bằng cách đáp ứng sự đòi hỏi của người khác thì ta luôn luôn ở trong tình trạng an toàn, tuy nhiên cái giá phải trả là quá đắt, đó là ta phải chấp nhận từ bỏ đi chính bản thân mình. Nói một cách ngắn gọn thì cá nhân đã không còn là chính mình nữa, con người đã hoàn toàn mô phỏng theo dạng tính cách mà những kiểu mẫu văn hoá mang lại cho họ, và vì thế mà họ trở nên giống với tất cả mọi người, và con người này chính là con người mà người xung quanh mong đợi. Cá nhân nào từ bỏ cái tôi thì cá nhân đó liền trở thành một cái máy, một cái máy chẳng khác nào hàng trăm, hàng triệu cái máy xung quanh nó.
Khi trẻ em được hỏi liệu chúng có muốn đến trường hay không? Câu trả lời luôn là: “đương nhiên em muốn”, nhưng liệu câu trả lời này có phản ánh đúng sự thật? Trong rất nhiều trường hợp thì câu trả lời này là hoàn hoàn không chính xác, đứa trẻ đó có thể muốn đến trường song nó lại thích chơi đùa hay làm cái gì khác hơn.
Ở đây với trẻ em thì vấn đề này không cần bàn cãi, vì đó là lứa tuổi mà chúng cần phải được dẫn dắt. Nhưng vấn đề quan trọng là ở đây: hầu hết người ta luôn bị một áp lực vô hình nào đó xỏ mũi từ lúc sinh ra cho đến lúc chết đi. Khi cái tôi thật sự đã bị đánh mất và được thay thế bằng cái tôi giả tạo thì cá nhân luôn rơi vào tình trạng vô cùng bất an và lo sợ, người ta luôn sống trong nghi ngờ cho tới suốt đời, đây là hậu quả của việc đánh mất phẩm tính của mình, và việc sống với một phẩm tính nào đó được tạo ra bằng sự tán thành và đồng ý từ phía người khác.
Vì thế cho nên lúc này cuộc đời chỉ là một mớ bòng bong mà không thể nào gỡ nổi, con người luôn bị thôi thúc hành động bởi những lực lượng mà họ không tài nào hiểu được, con người hành động hấp tấp từ chỗ này vội vàng đến chỗ nọ, nhưng họ vội vàng chỉ để mà vội vàng, và cuối cùng cuộc đời của con người đã không còn một mục tiêu hay mục đích nào cả, vì đơn thuần cuộc đời lúc này chỉ là những chuỗi ngày đền tội cho những thứ tội lỗi nào đó mà người khác đã gán cho.
Nietzsche nói: “Hầu như tất cả mọi hoạt động của con người phải chăng đều nhằm một mục đích là ngăn cản con người cảm nhận được đời mình, nhờ sự phân tán liên tục các dòng tư tưởng của họ. Sự chuyển biến điên cuồng này là một trò múa rối, một ảo giác làm cho con người ta quên mất mình là ai. Thế nhưng tại sao người cao thượng luôn mong muốn điều ngược lại? Tại sao họ lại mong muốn được cam chịu khổ đau vì cuộc sống? Bởi vì họ đã vễnh tai lên để nghe ngóng và ý thức được vấn đề, họ tuyên bố: “tôi chỉ muốn là tôi thôi”. Vấn đề này thực sự là kinh khủng, bởi vì nó đặt ra cho người ta một câu hỏi phi thường: Tại sao tôi phải sống trên đời? Tôi đã học được gì từ đời sống này? Làm thế nào tôi mới có thể trở thành tôi? Họ luôn băn khoăn day dứt và nhận thấy rằng không ai đau khổ hơn mình…
Trái lại thì những con người đồng loại với họ đang say sưa giơ cả hai tay về những biến cố huyễn hoặc đang được bày ra trên sân khấu, trong đó có cả hàng trăm vai trò khác nhau, người trẻ tuổi, kẻ già nua, bậc cha mẹ, công dân, thầy tu, công chức, nhà buôn… tất cả đều khoe khoang và chỉ nghĩ đến tấn hài kịch mà họ đang đóng với nhau, không nghĩ gì tới thế giới mà họ đang sống. Với câu hỏi: Tại sao tôi sống trên đời? Họ sẽ lập tức trả lời với vẻ kiêu hãnh: để trở thành một công dân tốt, một nhà thông thái, một luật sư… nhưng dù sao đi nữa thì những con người này vẫn cứ là họ, là một đồ vật không hơn không kém chứ chẳng phải thứ gì khác.
Sự thật là như vậy, lúc nào con người cũng dường như ở trong trạng thái bận rộn, họ ba chân bốn cẳng, vội vội vàng vàng để làm xong những nhiệm vụ trong ngày. Dường như con người đang bị sóng gió cuộc đời cuốn trôi dạt đi, nhưng cuối cùng họ lại không biết mình sẽ cập đến bến bờ nào.
Nói một cách ngắn gọn thì con người đã hoàn toàn bị lạc lối trên đường đời, đằng sau cái gọi là tiến bộ và thành công, thì con người đang gặp phải một sự bất hạnh ghê gớm, trên thực tế là đang đứng trên bờ tuyệt vọng, chúng ta đang cố bám níu một cách vô vọng vào cái được gọi là tồn tại, tất cả mọi con người đang dần dần trở nên đồng nhất và không một ai có được sự khác biệt nào với những người xung quanh về bình diện tâm lí.
Có còn chăng đó là sự khác biệt về ngoại hình, tên gọi… chúng ta khai báo danh tánh mình cho nhân viên đường sắt để mua vé tàu, chúng ta mặc đồ theo đúng giới tính của mình-tất cả những điều này ngụ ý cho sự thèm khát được khác biệt với người xung quanh, và điều này có lẽ là tàn tích cuối cùng cho sự bám níu vào bản ngã của con người.
Bất cứ một cá nhân nào cũng khao khát được sống, nhưng chính bởi vì là một cái máy cho nên người ta đã không còn cảm nhận được cuộc sống theo nghĩa là hành động tự ý, là việc giãi bày tư tưởng theo suy nghĩ của riêng mình mà từng cá nhân xem đó như là sự biểu hiện cho sự tồn tại của mình. Vậy đâu là ý nghĩa cho sự tồn tại của con người?
Mặc dù con người đã được giải phóng ra khỏi những trói buộc bên ngoài vốn ngăn cản họ trong những hành động và suy nghĩ mà họ thấy là thích đáng, họ đã được tự do làm theo ý mình muốn nhưng vấn đề còn lại là họ không biết mình muốn gì và cảm nhận gì? Con người hiện đại đang phải tuân theo một uy quyền ẩn danh và sống một cuộc đời vốn không phải như mình mong ước, càng làm như thế thì người ta càng cảm thấy bất lực và càng bị bắt buộc phải tuân theo, bất chấp vẻ bề ngoài lạc quan và chủ động, con người hiện đại đang bị kiệt sức bởi một cảm giác bất lực sâu sắc đến nỗi người ta chỉ còn biết nhìn trân trối vào cuộc sống, và dần dần không còn một chút cảm giác gì đối với các sự kiện dang diễn ra.
Nhìn vào bề ngoài thì con người tỏ ra khá ổn định trong đời sống kinh tế và xã hội, thế nhưng thực sự là nguy hiểm nếu người ta lờ đi nỗi bất hạnh sâu kín nằm phía sau vẻ bề ngoài thích ứng đó. Đời sống mất đi ý nghĩa của nó bởi vì ý nghĩa này đã không tồn tại, con người đã trở nên tuyệt vọng và khốn cùng, con người đã không còn được sống và chết một cách thanh thản, bởi vì còn gì tệ hại hơn khi con người đã đánh mất đi ý nghĩa cuộc đời.
Khi mất đi ý nghĩa cuộc đời thì con người sẽ rơi vào tình trạng mất phương hướng, hay là những mâu thuẫn mà không thể nào thoát ra được, lúc này con người đã mất đi niềm tin vào tất cả, họ bắt đầu sa đoạ dần bởi bia rượu, cờ bạc, gái điếm, trai bao và những thú vui súc vật khác, họ thờ ơ với nghệ thuật, khô cằn về tình cảm, hời hợt trong tình yêu, con người đã bị biến thành con vật không hơn không kém. Và chính bọn súc vật này chứ không một ai khác đã làm đảo lộn tất cả mọi giá trị và sự thật trên đời, bọn rác rưởi và ghê tởm đó giống như một căn bệnh dịch đi đầu độc người khác và xã hội, vì những loại này luôn tôn thờ sự dối trá, đúng là “chân lý như ánh sáng làm cho người ta mù quáng. Điều dối trá thì ngược lại, nó như ánh hoàng hôn đẹp đẽ và đem lại giá trị cho mỗi sự vật”.
Lũ người này tệ hại đến nỗi ta có thể mượn lại lời của các bậc tiền bối như Michel Mourre nói: “đó là lũ vô xã hội, lũ bệnh hoạn và lũ thất chí”, đối với Adamop “đó là những bóng ma bí ẩn, những gã què cụt… và luôn luôn là những kẻ loạn thần kinh, ở Ionesco: “đó là bọn bù nhìn, những con rối, những nhân vật dở dở điên điên”, hay Becket: “đó là những kẻ vô gia cư, những thằng hề, những bọn tàn tật”, rồi Thackore: “đó là bọn quị luỵ với người trên và tàn nhẫn với người dưới”, và Nietzsche: “đó là những kẻ hèn nhát, sợ sệt, vô giá trị, những kẻ hay nghi ngờ với cái nhìn dáo dát, những kẻ bần tiện, loại người chó má, những kẻ ăn mày nịnh hót và trên hết đó là bọn luôn nói láo”.
Như vậy từng cá nhân đang dần cảm thấy bất lực trong một mớ hỗn độn các sự kiện, và họ luôn mong muốn có một ai đó có thể chỉ cho họ biết rằng họ phải làm gì và nên đi về đâu. Nhưng cũng có một nghịch lí, khi một cá nhân nào đó muốn tạo cho mình một sự khác biệt, thì họ lại bị rơi vào tình trạng bất lực và bấp bênh của một con người cô độc trong xã hội.
Vì kiệt sức cho nên người ta bắt đầu có những hoài nghi về bản thân mình, về ý nghĩa cuộc đời và cuối cùng là bởi mọi chuẩn mực mà theo đó có thể hướng dẫn cho mọi hành động của con người. Cả sự bất lực và hoài nghi này đã đẩy con người vào đường cùng: họ chấp nhận để ý kiến dư luận xỏ mũi dẫn đi. Thế nhưng cũng vẫn là câu hỏi này: Nếu như tôi chẳng phải là một cái gì khác ngoài cái mà mọi người đã gán cho tôi, thế thì tôi là ai?
Trong các vở kịch của mình Pirandello đã diễn tả sự cảm nhận sâu sắc của ông ta như sau, ông bắt đầu với câu hỏi: Tôi là ai? Tôi có sự khắng định nào khác cho nhân vị của mình ngoài cái mà người ta đã gán cho tôi? Câu trả lời của ông ta đã phản ánh một tình trạng tệ hại của con người hiện đại: Tôi không có nhân vị nào cả, chẳng có một bản ngã nào cả ngoại trừ một hình bóng phản chiếu những gì mà người khác đã đòi hỏi nơi tôi, như vậy tôi chỉ là “những gì mà người khác đòi hỏi nơi tôi”.
Những con người không có tên
Hậu quả của việc đánh mất đi ý nghĩa của cuộc đời đã được phân tích rất sâu sắc bởi Becket, Ionesco và Adamop-ba cột trụ của kịch phi lý. Các nhân vật trong kịch phi lí đều luôn thảm hại, điên rồ, mất trí… đây là hậu quả của việc con người đã không còn biết mình sống để làm gì.
Trong tác phẩm nổi tiếng nhất của Becket là Trong khi chờ đợi Godo, thì cái phi lí của cuộc đời được thể hiện một cách cực kì sâu sắc trong câu hỏi: phải chăng cuộc sống của con người chỉ là một chuỗi ngày chời đợi-chờ cái chết? Ý nghĩa của câu nói này được thể hiện qua lời lẽ của nhân vật trong kịch: “Không có cái gì trôi qua, không có ai tới, không có ai đi, thật sự khủng khiếp”, hay “ngày nào cũng như ngày nào vậy một ngày vẫn chưa đủ hay sao?”
Điều này lại tiếp tục được diễn tả trong tác phẩm Tàn cuộc, Hamm-nhân vật trong tiểu thuyết nói: “Chúng ta thở, chúng ta biến đổi, chúng ta rụng mất tóc, mất răng, mất đi sự tươi mát, mất đi lí tưởng”. Còn Clao thì “có lúc trèo lên ghế đẩu, nhòm qua ống kính. Clao đã thấy ngoài kia là đại dương, nhưng đại dương chỉ là số không, không cánh buồm, không cánh hải âu, còn sóng thì giống như chì”. Tàn cuộc cũng đưa ra một triết lí cay đắng cho cuộc đời không ý nghĩa “Cuộc đời là gì? Sống để làm gì? Có thể kết thúc được rồi đấy… cả cuộc đời vẫn chỉ là những câu hỏi như thế mà thôi”. Nell cũng phát biểu: “Tại sao lại cứ diễn mãi cái trò này, ngày nọ sang ngày kia”. Còn Hamm: “Sự kết thúc đã nằm trong cái mở đầu, ấy vậy mà người ta vẫn cứ tiếp tục”.
Hầu hết các nhân vật mà Becket miêu tả đều có mối liên hệ với những vai hề và những con rối, hình như ý ông ta muốn nói: trong cuộc đời, con người giống như là những con rối, bị giật giây một cách thảm hại để làm những trò hề. “Trò chơi” mà các nhân vật đang chơi trên sân khấu, cũng chính là những tấn trò mà mỗi một con người ngoài đời đang chơi, dù đó là vô vị.
Đối với Ionesco thì “bi kịch của con người luôn luôn là hài kịch”. Vì vậy suy cho cùng hài hước chỉ làm cho tính chất bi đát ngày một tăng thêm, cuộc sống đã không còn ý nghĩa lúc này sự tồn tại của con người thực sự đáng buồn cười, như Becket nói: “Chẳng có gì buồn cười hơn là nỗi bất hạnh… đây là điều hài hước nhất trần gian”.
Vẫn là câu hỏi: Sống để làm gì?
Một câu hỏi tiếp theo lại xuất hiện: liệu câu hỏi sống để làm gì có nên hỏi hay là bỏ mặc nó đi để rồi sống?
Camus nói rằng: “Việc hỏi rằng cuộc đời này đáng sống hay không đáng sống là một câu hỏi cơ bản nhất trong mọi câu hỏi. Tất cả những câu hỏi còn lại, như thế giới là ba chiều hay nhiều chiều, trí tuệ có chín hay mười hai phạm trù đều chỉ là những câu hỏi đến sau”.
Như vậy dù có muốn hay không muốn thì câu hỏi: Sống để làm gì, phải được giải quyết càng nhanh càng tốt nếu như chúng ta thực sự muốn biết được cuộc sống này là gì.
Tiểu thuyết kiếm hiệp Tru Tiên do Tiêu Đỉnh viết, mặc dù là về ma quỉ, thần thánh… thế nhưng có một đoạn văn này rất đáng để suy ngẫm:
Quỉ Lệ-nhân vật chính nhìn Chu Nhất Tiên chợt hỏi: “Tiền bối thử nói xem, những người dân vô tội bị chết oan ấy, ai chẳng phải là những con người như chúng ta, ai chẳng đang sống một cách yên lành? Không phải là toàn bộ, nhưng chí ít là chín chín trong một trăm người vốn dĩ đều chẳng làm hại người hay súc vật, nhưng tại sao họ lại chịu đựng những tai hoạ tai bay vạ gió”.
Chu Nhất Tiên đáp: “Ngươi hôm nay đang đứng được nơi đây, còn những người dân vô tội thì đã bỏ mạng, ta hỏi ngươi, ngươi cho là vì duyên cớ gì?”
Quỉ Lệ im lặng một hồi lâu mới nói: “Ta khác với họ, ta tu tập đạo pháp, nên dù yêu quái kéo đến ta vẫn tránh được”
Chu Nhất Tiên gật đầu: “Vậy thì ngươi cho rằng ai cũng như ai, đó là ngươi nhìn từ một tầm cao, từ một cảnh giới rộng lớn tựa như Phật Môn của Thiên Âm Tự vẫn nói chúng sinh là bình đẳng. Theo lời của Phật Môn thì đâu chỉ là loài người, mà loài mãnh thú thì cũng có khác gì với chúng ta. Lão ngừng lại mỉm cười rồi nói tiếp, nhưng đâu thể nào nhìn thế gian theo cách nhỏ nhoi và đơn giản đến như thế? Ngươi có bản lĩnh thần thông, có pháp lực cao siêu nên có thể thoát thân trong tử địa, có thể siêu thoát để vượt lên trên tầm chúng sinh phàm tục, nói là chúng sinh bình đẳng nhưng khi suy xét tỉ mĩ thì chưa bao giờ có bình đẳng cả.”
Vẻ mặt Quỉ Lệ có nét hoang mang, hắn chầm chậm lắc đầu: “Ta không mong muốn vượt lên trên chúng sinh, ta cũng không có lòng từ bi phổ độ, ta tuy tu đạo nhưng cũng không có chút quan tâm đến trường sinh bất tử”.
Chu Nhất Tiên điềm đạm hỏi: Vậy ngươi cần điều gì?
Quỉ Lệ cười gượng gạo với tiếng nói đầy chua chát: “Đúng thế, ta muốn cái gì thì chính bản thân ta cũng không biết”.
Sắc mặt hắn liên tục thay đổi, vầng trăng đã treo cao giữa trời toả ánh vàng rực rỡ, bóng hắn trải dài xuống mặt đất.
Chu Nhất Tiên lặng lẽ nhìn Quỉ Lệ, ánh mắt lão hoàn toàn khác với mọi ngày, trước mắt lão là nhân vật duy nhất trên thế gian đã tu tập xong bốn quyển Thiên Thư, mình đầy đạo pháp quỉ thần khó lường. Nhưng lúc này nhìn vào thì hình như Chu Nhất Tiên còn cao hơn cả hắn. Trông lão rất nho nhã ung dung, làn gió đêm thổi qua bên mái tóc bạc trắng, hình như cả ánh trăng cũng lặng lẽ tụ lại bên lão.
Nhưng Quỉ Lệ thì hình như không cảm thấy có gì khác lạ, thực ra thì Chu Nhất Tiên vẫn đang đứng yên lành trước mặt hắn, còn hắn thì đang chìm đắm trong suy tư.
Sau một hồi, Quỉ Lệ gượng gạo mỉm cười nói: “Xem ra, ta đúng là chẳng ra gì cả, ngay cả ta sống vì cái gì, muốn cái gì thì ngay chính bản thân ta cũng không biết”.
Chu Nhất Tiên bình thản nhìn Quỉ Lệ, miệng thoáng nét cười: “Sai rồi chàng trai trẻ ạ”.
Quỉ Lệ sững sờ, đây là lần đầu tiên hắn nghe Chu Nhất Tiên gọi mình là chàng trai trẻ. Nhưng điều này không phải là chủ yếu, sau một lúc ngạc nhiên hắn nói: “Xin thỉnh giáo, tiền bối nói ta sai, vậy thì ta sai ở chỗ nào?”
Chu Nhất Tiên vẫn điềm đạm: “Ngươi cho rằng mình nghĩ không ra mình sống vì cái gì, tức là hạng không ra gì à? Theo ta thì ngược lại, ngươi đã biết nghĩ đến vấn đề này thì đó là chỗ hơn người của ngươi”.
Quỉ Lệ ngạc nhiên hỏi: “Gì cơ?”
Chu Nhất Tiên vẫy tay: “Lại đây xem”
Quỉ Lệ bước đến bên lão, nhìn theo hướng tay lão chỉ, trong thành Hà Dương dưới ánh trăng vàng, những đốm lửa đèn không ngừng nhấp nháy trong không gian yên tĩnh.
Chu Nhất Tiên nhìn đám lửa đèn, ánh mắt lão thể hiện một tâm trạng đầy phức tạp, lát sau lão bình thản nói: “Ngươi đã thấy được những gì?”
Quỉ Lệ đáp: “Ánh đèn của vô số chúng sinh”
Chu Nhất Tiên gật đầu: “Phải, ánh đèn. Những đốm sáng ấy tựa như những con người đang sống trên thế gian này, hoặc là họ đắc chí, hoặc là họ không đắc chí, nhưng họ vẫn phải tiếp tục sống. Ngươi nghe đây, chẳng rõ trong đông đảo chúng sinh có không biết bao nhiêu người sống chỉ để mà sống, nhưng người băn khoăn vắt óc để suy nghĩ về vấn đề sống để làm gì như ngươi thì vạn người không có lấy một”
Và cuối cùng, dành cho bạn, vẫn là câu hỏi: Sống để làm gì?